Theo đó, kinh tế hợp tác không chỉ giúp ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh mà còn tạo việc làm,gia tăng thu nhập, hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống của xã viên. Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp có ý nghĩa sâu sắc cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và trật tự an ninh. Đặc biệt, trong cách mạng công nghiệp 4.0, muốn sản xuất hàng hóa lớn tất yếu phải liên kết hợp tác, làm theo tiêu chuẩn thì sản phẩm mới có chỗ đứng trên thị trường. Trong những năm gần đây HTX, đặc biệt trong khu vực NN có những bước phát triển vượt bậc, tuy nhiên so với nhu cầu của nông nghiệp thì chưa đáp ứng được. Chính phủ có chủ trương xây dựng Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 – 2025. Bài viết đề cập đến những khía cạnh cần được quan tâm nhằm hỗ trợ hiệu quả phát triển các hợp tác xã và tổ hợp tác nông nghiệp trong giai đoạn tới.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm gian hàng giới thiệu mô hình hoa tại Triển lãm thành tựu Nông nghiệp 2019
1. Kinh tế hợp tác và các loại hình hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam
1.1.Kinh tế hợp tác
Là một phạm trù có phạm vi hẹp trong phát triển, mô hình kinh tế hợp tác xuất hiện ban đầu không chỉ trong nông nghiệp mà còn ở nhiều ngành sản xuất và dịch vụ. Những người khởi xướng phong trào hợp tác xã (HTX), khởi đầu thường tìm cách kết hợp với nhau theo từng tổ, nhóm nhỏ, rồi mới dần hình thành nên các HTX. Kinh tế hợp tác thể hiện mối quan hệ tự nguyện, phối hợp, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau của những người cùng tham gia; Thông qua HTX, hoạt động sản xuất kinh doanh đã kết hợp được sức mạnh của từng thành viên. Với ưu thế của sức mạnh tập thể, nhiều hợp tác xã đã nâng cao dược hiệu quả hoạt động và lợi ích của từng thành viên.
Từ thực tế nước ta, Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 5, Khóa IX Đảng Công sản Việt Nam đã chỉ ra, “…tiềm năng phát triển khu vực hợp tác xã rất lớn nếu Nhà nước có chính sách hỗ trợ hợp tác xã tiếp cận được các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Thông qua các hợp tác xã, những xã viên, nông dân sản xuất với quy mô nhỏ có thể liên kết lại với nhau nhằm phát huy lợi thế của kinh tế theo quy mô, tăng cường năng lực và hiệu quả sản xuất đi đôi với việc hạ giá thành, kiểm soát chất lượng, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Kinh tế tập thể với hình thức phổ biến là các tổ hợp tác và hợp tác xã; trong nông nghiệp, trước hết tập trung làm các dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hộ thành viên, từng bước mở rộng ngành nghề, sản xuất, kinh doanh, tổng hợp; trong lĩnh vực phi nông nghiệp, vừa tổ chức sản xuất vừa kinh doanh dịch vụ. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết kinh tế giữa các tổ hợp tác, hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là với doanh nghiệp nhà nước. Khi hợp tác xã phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002).
1.2 Các loại hình kinh tế hợp tác phổ biến
Ở nước ta hiện đang tồn tại nhiều loại hình kinh tế hợp tác.song có 2 dạng phổ biến đó là tổ hợp tác (THT) và hợp tác xã (HTX). Mỗi loại hình đều phản ánh đặc điểm, trình độ phát triển riêng của lực lượng sản xuất và hình thức phân công lao động xã hội, được thể hiện thông qua sự khác biệt về nguyên tắc hoạt động, cơ cấu tổ chức và phát huy tác dụng trong những điều kiện khac nhau. Làm rõ được những đặc điểm của từng loại mô hình kinh tế hợp tác để lựa chọn phương thức hỗ trợ, tạo thuận lợi nhằm phát huy hiệu quả trong phát triển kinh tế xã hội là việc làm cần thiết.
Trong giai đoạn 2015-2020, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, Ban ngành đã triển khai thực hiện đồng bộ Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã theo Quyết định số 2261/QĐ-TTg, ngày 15 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ.
Qua 5 năm thực hiện, nhìn chung, khu vực HTX đang đà hồi phục và có nhiều tiềm năng phát triển. Số lượng THT và HTX tăng theo từng năm và phát triển rộng khắp ở các vùng miền với chất lượng ngày một cải thiện, nâng cao. Các HTX đã góp phần hỗ trợ kinh tế hộ thành viên, tạo nhiều việc làm cho người lao động, đóng góp tích cực cho phát kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, số HTX quy mô lớn còn ít, quá trình hợp nhất, sáp nhập HTX chưa nhiều; hiệu quả hoạt đông của THT, HTX chưa đáp ứng được yêu cầu mong muốn, còn chậm so với các hình thức tổ chức kinh doanh khác trong xã hội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2020).
Đối với loại hình Tổ hợp tác.
Trong cả nước cả nước, THT phát triển tương đối ổn định về số lượng, đa dạng về loại hình. Hoạt động của nhiều THT đã thể hiện sự phù hợp với nhu cầu của nông dân sản xuất nhỏ, lao động còn nghèo; đặc biệt đối với nông thôn miền núi, nơi sản xuất nặng tính thời vụ và hợp tác theo vụ việc đang còn phổ biến. Tính đến 31tháng 12 năm 2019 cả nước có 110.000 THT, thu hút được trên 1.506.000 thành viên, đạt bình quân khoảng 13 thành viên/THT. Các THT đi vào hoạt động đã góp phần khắc phục tình trạng yếu kém của kinh tế hộ đơn lẻ như thiếu vốn, công cụ, kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất; giúp kinh tế hộ thành viên nâng cao năng lực hoạt động; sử dụng có hiệu quả đất đai, lao động, vật tư và tiền vốn cũng như tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật thúc đẩy phát triển sản xuất đồng thời với phát huy giá trị tinh thần về văn hóa xã hội; khích lệ ý thức tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống. Nhiều THT đã trở thành cầu nối giữa chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội với người dân trong công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đối với tổ chức Hợp tác xã
Cuối năm 2019, cả nước có khoảng 24.448 HTX, thu hút gần 6 triệu thành viên tham gia, tăng 22% về số lượng, nhưng lại giảm 26,8% về lượng thành viên so với năm 2015. Tuy nhiên, tổng số lao động làm việc thường xuyên trong các HTX năm 2020 có thể lên tới 1.257.600 người, tăng 9%. so với năm 2015.
Mặc dù còn không ít khó khăn, nhưng hoạt động HTX ngày càng ổn định và có chiều hướng phát triển tốt hơn với hiệu quả kinh doanh tăng lên rõ rệt. Doanh thu bình quân năm 2020 ước tăng 390 triệu đồng/HTX (tăng khoảng 17%) so với năm 2015.Trong đó, doanh thu bình quân bao gồm cả của gia đình thành viên, chiếm khoảng 71% tổng doanh thu của HTX. Thu nhập bình quân của lao động thường xuyên được cải thiện, năm 2020 ước đạt 48,6 triệu đồng tăng 80% so với năm 2015. Thông qua HTX, đời sống của thành viên và lao động trong HTX tăng lên đáng kể. Theo Tổng cục Thống kê, đóng góp trực tiếp của khu vực HTX vào GDP trung bình đạt khoảng 4%; nhưng vai trò quan trọng là HTX đã đem lại giá trị gia tăng cao cho kinh tế hộ thành viên (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2020).
PGS. TS Đào Thế Anh thăm mô hình Coffee cùng đại biểu Quốc tế
Thực tế ở nhiều vùng đã chỉ ra, năng suất lao động giữa hộ thành viên HTX so với hộ không phải là thành viên chênh nhau không nhiều, nhưng giá thành sản phẩm lại có sự chênh lệch rõ rệt. Các hộ thành viên HTX bán hàng với giá cao hơn các hộ không phải thành viên HTX khoảng 10%,và chi phí sản xuất giảm tới 25%. Do vậy, thu nhập của hộ thành viên HTX cao hơn so với các hộ không phải thành viên tới 30% (thậm chí ở thành phố Hồ Chí Minh là 35,7%). Điều này đã góp phần quan trọng vào thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế cá thể, hộ gia đình, đưa tỷ trọng của khu vực này lên trên 30% GDP cả nước.
2. Mô hình HTX nông nghiệp với trình độ sản xuất khác nhau ở các vùng sinh thái phía Bắc
Khảo sát trên địa bàn nhiều vùng sinh thái khác nhau, các nhà nghiên cứu nhận thấy, mô hình kinh tế hợp tác phát triển rất đa dạng. Những mô hình có khả năng phát triển đều xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của từng vùng cụ thể và thích hợp với trình độ sản xuất của người nông dân.
2.1. Trên địa bàn đất rộng người thưa thuộc vùng núi cao
Trong khảo sát tỉnh Sơn La, một Tỉnh đất rộng người thưa thuộc vùng cao miền núi Tây Bắc; Cục trưởng Cục kinh tế hợp tác Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Lê Đức Thịnh nhận thấy: Ba năm gần đây, mỗi năm Tỉnh thành lập mới từ 60 đến 80 HTX nông nghiệp, song quy mô HTX chỉ từ có 7 đến vài chục thành viên. Nhiều HTX có thành viên chủ yếu là bà con, anh em thân thiết, ..nhiều người cho rằng, đây là mô hình trang trại hay công ty trá hình. Tuy nhiên, ông lại nhìn nhận theo hướng tìm hiểu và phân tích kỹ bản chất của mô hình hoat động, để làm rõ vai trò của những HTX này. Theo ông, tuy còn hạn chế về vốn đóng góp nhỏ, quản lý chưa chuyên nghiệp; nhưng các HTX đều đã tuân thủ và đáp ứng được quy định của Luật HTX cả về tổ chức, đăng ký và triển khai hoạt động. Đa phần HTX đều làm dịch vụ quản lý quy trình kỹ thuật sản xuất an toàn, quảng bá xúc tiến thương mại và làm đầu mối đại diện ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản. Tuy quy mô nhỏ, nhưng các HTX đều làm tốt vai trò hợp tác kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn thực phẩm, chuyển đổi cây trồng vật nuôi và xây dựng mô hình sản xuất mới,.. Đối với những HTX quy mô lớn hơn, ngoài liên kết với doanh nghiệp đầu vào, đầu ra, họ còn liên kết với nhau trong sản xuất kinh doanh; liên kết với các HTX mới thành lập làm “vệ tinh” trong cung cấp sản phẩm đầu vào và bổ sung sản phẩm đầu ra, nhằm đáp ứng yêu cầu hợp đồng nông sản với các đối tác. Một số còn giúp nông dân thành lập các Tổ hợp tác nhằm mở rộng quy mô liên kết, tạo quy mô sản xuất hàng hóa vàvùng chuyên canh lớn ở địa phương.
Nhìn từ góc độ rộng hơn trên toàn địa bàn Tỉnh, ông nhận thấy; nếu các HTX nông nghiệp quy mô nhỏ biết hợp tác, liên kết chặt chẽ với nhau theo hiều ngang thì vẫn tạo ra được quy mô sản xuất lớn, xây dựng được vùng nguyên liệu chuyên môn hóa tập trung đáp ứng dược nhu cầu thị trường. Việc HTX và các THT nhỏ chưa xây dựng thành HTX quy mô lớn có những lý do từ nhiều hạn chế …,song tương lai không xa, từ yêu cầu tích tụ, họ sẽ sáp nhập lại để cùng nhau tạo ra những HTX có quy mô to lớn hơn.
2.2. Tại địa bàn đất ít người đông trong vùng đồng bằng có nền nông nghiệp phát triển
Nghiên cứu khảo sát ở vùng đất ít người đông thuộc vùng châu thổ sông Hồng, nơi có phong trào Hợp tác hóa từ lâu, với hầu hết các HTX nông nghiệp ở quy mô xã đang đà chuyển đổi, các nhà khoa học thuộc Hội Khoa học và Phát triển Nông thôn Việt Nam (PHANO) lại có cách nhìn thiết thực để phát hiện vấn đề. Theo đó, kết quả xây dựng mô hình HTX nông nghiệp đa dạng đã trở thành nhân tố hỗ trợ hiệu quả cho phát triển kinh tế hộ gia đình và mở ra triển vọng mới để tái cơ cấu và đổi mới ngành nông nghiệp phục vụ hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Trên cơ sở phân ích tính khách quan và đặc điểm của hình thái kinh tế nông nghiệp gia đình, các nhà nghiên cứu cho rằng, kinh tế hộ nông dân ở vùng Đồng bằng sông Hồng hàm chứa những tư cách liên hệ mật thiết hữu cơ với nhau trên tất cả các phương diện kinh tế và phi kinh tế, vật chất và phi vật chất. Đây là những đơn vị sản xuất, tiêu dùng và xã hội huyết thống đặc thù. Trong cấu trúc sản xuất nông nghiệp, cho dù đạt tới ngưỡng tiên tiến, song kinh tế hộ vẫn còn là những đơn vị cơ sở và chiếm số lượng lớn nhất. Sự phát triển của các loại hình sản xuất nông nghiệp về cơ bản đều dựa trên sự phát triển của kinh tế hộ nông dân. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa đất nước và hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, hộ nông dân sản xuất tự cung tự cấp sẽ chuyển dần sang sản xuất hàng hoá là chủ yếu và sản xuất hàng hoá hoàn toàn ngày càng mở rộng (Đào Thế Anh, Lê Thành Ý, 2019).
Khi kinh tế hộ bước vào sản xuất hàng hoá, ở mỗi sản phẩm đều đòi hỏi những ngưỡng tối thiểu về đất đai, lao động và tiền vốn. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng đối với hộ sản xuất nông sản hàng hoá lại là năng lực sản xuất kinh doanh. Sự khác biệt về năng lực này của hộ gia đình là yếu tố quyết định đến mức độ mở rộng sản xuất nông sản hàng hoá. Quá trình phát triển, phân tầng, phân hóa kinh tế hộ nông dân là cơ sở khách quan của sự ra đời đa dạng, đa trình độ, đa quy mô của các hình thức hợp tác và liên kết sản xuất kinh doanh nông nghiệp dựa trên sự phát triển của kinh tế hộ nông dân.
Phù hợp với đặc điểm và sự phát triển của các hộ nông dân, trong thực thi Luật HTX 2012, ở các vùng châu thổ đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế tập thể với cách làm sáng tạo và đa dạng, đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng NTM. Những mô hình tiêu biểu được thể hiện dưới dạng HTX chuyên ngành mang tính dẫn dắt, hỗ trợ kinh tế hộ thành viên phát triển; HTX đảm nhận nhiều khâu dịch vụ trong chuỗi giá trị hoặc tích tụ tập trung ruộng đất để ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi có hiệu quả cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
GS. TSKH Trần Duy Quý thăm mô hình lúa tại HTX Nông nghiệp Phú Xuyên, Hà Nội
2.2.1. Về HTX dịch vụ tổng hợp thực hiện nhiều khâu công việc trong chuỗi giá trị
Trong thực thi Luật HTX 2012, theo hướng chuyển đổi HTX kiểu cũ, những HTX được tổ chức lại theo Luật đã trở thành các đơn vị kinh doanh dịch vụ, thực hiện nhiều khâu công việc phục vụ sản xuất của hộ nông dân. Đây là mô hình HTX phổ biến nhất hiện nay ở vùng ĐBSH. Theo hướng phát triển này, có 2 cách làm đó là, giữ nguyên quy mô cũ, chỉ tinh giản, kiện toàn bộ máy lãnh đạo và đội ngũ lao động làm việc thường xuyên; hình thức thứ hai là giải thể HTX kiểu cũ, vận động người có tâm huyết cùng góp vốn để đăng ký thành lập HTX theo luật HTX ban hành năm 2012 (Lê Thành Ý, Vương Xuân Nguyên, 2019).
Hình thức đầu tiên là cách làm phổ biến ở tỉnh Thái Bình. Nghiên cứu mô hình chuyển đổi của HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp xã Bình Định huyện Kiến Xương cho thấy, năm 1997 HTX được thành lập với quy mô toàn xã mang tên HTX nông nghiệp xã Bình Định. HTX chuyển sang hoạt động theo Luật HTX năm 2012 từ tháng 01 năm 2016 với tên gọi HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp xã Bình Định với số thành viên là 3.145 hộ gia đình. Theo chủ trương của tỉnh Thái Bình, khi chuyển đổi toàn bộ vốn, quỹ, tài sản của HTX cũ không chia và chuyển sang HTX kiểu mới.
Với chức năng tổ chức hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh của các hộ thành viên, HTX đã tập trung vào 11 khâu dịch vụ nông nghiệp bao gồm Thuỷ nông; Khoa học kỹ thuật; Bảo vệ thực vật; Cung ứng vật tư nông nghiệp,giống cây trồng; Cung ứng thuốc thú y, chữa bệnh cho gia súc, gia cầm; tiêu thụ nông sản; làm dịch vụ môi trường; máy nông nghiệp; tín dụng nội bộ và quản lý, thu thuế chợ.
HTX đã quan tâm ưu tiên phát triển dịch vụ bao tiêu sản phẩm cho thành viên theo hướng tích tụ ruộng đất. Qua đó, đã gia tăng giá trị thu nhập hàng năm của các thành viên lên từ 2 tỷ đến 2,5 tỷ đồng. Ngoài ra, HTX còn thực hiện quy vùng sản xuất theo tiêu chí cánh đồng mẫu lớn, tạo thuận lợi để canh tác cùng một giống, gieo cấy và thu hoạch vào cùng thời điểm…. Nhờ đó, đã rút ngắn được thời gian bơm nước, phòng trừ sâu bệnh, cơ giới hoá công việc đồng ruộng…Những dịch vụ HTX thực hiện, đã giảm đáng kể chi phí sản xuất và gia tăng giá trị thu nhập của thành viên là các hộ gia đình.
Khác với mô hình chuyển đổi HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ ở tỉnh Thái Bình, tỉnh Nam Định lại có nhiều huyện thực hiện theo cách làm thứ 2 là giải thể các HTX kiểu cũ để thành lập HTX mới theo Luật định.
Khảo sát mô hình HTX Đông Tiến thuộc huyện Hải Hậu, các nhà nghiên cứu nhận thấy, HTX đã được thành lập sau ngày Đại hội HTX nông nghiệp kiểu cũ kết thúc nhiệm kỳ và hoàn tất hồ sơ, thủ tục giải thể vào ngày 25 tháng 12 năm 2015.
Căn cứ vào Luật HTX ban hành năm 2012, một số cán bộ và thành viên tâm huyết với sản xuất nông nghiệp đã đăng ký góp vốn và xin thành lập HTX với số vốn ban đầu là 350 triệu đồng (người góp cao nhất 70 triệu và người thấp nhất là 5 triệu đồng). Ngày 15 tháng 01 năm 2016 HTX được thành lập mang tên HTX Dịch vụ Nông nghiệp và Kinh doanh Tổng hợp (HTXDVNN&KDTH) với đầy đủ quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tự hạch toán và tự chịu trách nhiệm.
Thành viên tham gia HTX gồm 18 người chính thức góp vốn và trên 1.700 hộ gia đình sử dụng dịch vụ của HTX. Thành viên chính thức góp vốn bầu ra bộ máy quản lý gồm 3 người trong Hội đồng Quản tri; HTX có 16 lao động thường xuyên trong đội thuỷ nông chuyên trách và 06 nhân viên bán hàng làm dịch vụ. Kinh doanh dịch vụ được quy định cụ thể gồm có dịch vụ bắt buộc; dịch vụ cung ứng giống lúa, sản xuất giống lúa và thuốc bảo vệ thực vật.
Về các dịch vụ bắt buộc được giao quản lý 10 kênh dẫn nước cấp 2 và 201 mương cấp 3 với tổng chiều dài trên 61,8 Km. HTX chịu trách nhiệm hợp đồng làm thuỷ nông dẫn nước,nạo vét thuỷ lợi, diệt chuột cho các hộ sản xuất. Định mức thu dịch vụ này được xây dựng sau khi bàn bạc, được thành viên trong HTX đồng thuận và xã thu phí dịch vụ thông qua các trưởng thôn.
Đối với sản xuất và cung ứng lúa giống. HTX có nhiệm vụ thường xuyên theo rõi, tìm hiểu những giống mới, có năng suất cao và chất lượng tốt để phục vụ sản xuất; chịu trách nhiệm cam kết cùng các công ty cung cấp giống bảo hành chất lượng đến khu thu hoạch, đáp ứng ít nhất 90% nhu cầu sản xuất. Việc liên kết sản xuất lúa giống, thông qua hợp đồng, HTX phảỉ hình thành được những cánh đồng mấu lớn cấy lúa giống với giá sản xuất cao hơn 25% so với giá sản xuất lúa tiêu dùng thông thường.
Về cung ứng thuốc BVTV. HTX phải đảm bảo hợp đồng mua bán sản phẩm chất lượng tốt, thân thiện với môi trường và đáp ứng được từ trên 80% nhu cầu.
Với cơ chế quản lý theo luật, HTX Đông Tiến đã góp phần ổn định giá cả trên địa bàn. Nông dân được tiếp cận với những tiến bộ kỹ thuật mới về giống lúa. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh HTX được tự chủ, không bị ràng buộc như trước đây đã giúp phát phát triển mạnh mẽ kinh tế các hộ gia đình.
2.2.2.Về mô hình HTX dẫn dắt kinh tế hộ thành viên phát triển sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường.
Là mô hình mang tính phổ biến sau mô hình HTX làm dịch vụ tổng hợp, những HTX mới thành lập có quy mô không lớn; khởi đầu thường chỉ có từ 7 đến vài chục thành viên. Thành viên tham gia HTX thường là những hộ có kinh nghiệm và tiềm lực kinh tế khá để cùng phát triển một hay một số nhóm sản phẩm nông nghiệp.
Từ nhu cầu thị trường và mong muốn nâng cao thu nhập, nhiều trang trại và hộ nông dân đã cùng liên kết, hợp tác để tham gia vào chuỗi giá trị nông sản an toàn. Ở đây, HTX giữ vai trò là người tổ chức sản xuất, áp dụng các quy trình sản xuất an toàn và kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi bán ra thị trường. Nhờ chuyên môn hoá sâu và áp dụng công nghệ tiên tiến nên giá trị sản xuất kinh doanh của HTX đạt được khá cao, có thể từ hàng trăm triệu đến nhiều chục tỷ đồng.
2.2.2.HTX sản xuất và thương mại thuỷ sản Xuyên Việt, xã Hồng Hưng, huyện Gia Lộc
Trong những HTX dẫn dắt kinh tế hộ thành viên phát triển ở châu thổ sông Hồng, Hồng Hưng là một điển hình nổi bật của tỉnh hải Dương.
Với ngành nghề sản xuất kinh doanh giống, chế phẩm sinh học, thuốc thủy sản và xử lý cải tạo môi trường nuôi trồng, HTX đã chủ động tạo vùng ương dưỡng giống thủy sản và nuôi cá thương phẩm, cung ứng đầu vào và kết nối đầu ra cho thành viên HTX cũng như thành viên liên kết trong cả nước. Để giải quyết nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, HTX không chỉ giới hạn tìm kiếm thị trường đầu ra trong Tỉnh mà đã kết nối với nhiều tỉnh, thành phố.
Ngay khi hình thành, ban lãnh đạo HTX đã xác định, yếu tố quyết định là nguồn nhân lực có trí tuệ nên thành viên tham gia HTX đều được đào tạo lại theo một hệ thống bài bản, nhằm nắm chắc quy trình sản xuất hiện đại.
Xuất phát từ liên kết để cùng thay đổi tư duy làm ăn chuyên nghiệp và sáng tạo, Ban lãnh đạo HTX đã xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm từ giống, thức ăn đến thị trường tiêu thụ để tìm cách tăng thêm giá trị sản phẩm làm ra. Bước đi đầu tiên của HTX là liên kết được với 9 hộ nuôi cá trong vùng để thành lập HTX Sản xuất và Thương mại Thủy sản với diện tích ao nuôi 7 ha và tổng chi phí đầu tư trên 4 tỷ đồng.
Từ hướng đi đúng đắn vạch ra, đến nay HTX đã phát triển mở rộng với 28 thành viên, sở hữu trên 106 ha diện tích ao nuôi; hàng năm có thể sản xuất và cung ứng ra thị trường trên 1.000 tấn cá thương phẩm và 30 triệu con cá giống. Với tổng vốn điều lệ trên 9 tỷ đồng, HTX đã tạo được doanh thu 20 tỷ đồng/năm và thu nhập của người lao động đạt từ 5 triệu đến 10 triệu đồng/tháng .
2.2.2.2 HTX Cựu Chiến Binh Vạn Xuân Trường, xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản
Khác với Xuyên Việt, từ đặc điểm của vùng đất trũng Nam Định, với những trang trại còn nhỏ lẻ, phân tán, các cựu chiến binh ở xã Hiển Khánh lại có cách đi lên từ những trang trại gia đinh để phát huy vai trò của HTX nông nghiệp trong táí cơ cấu kinh tế-xã hội và xây dựng NTM.
Được thành lập vào tháng 10 năm 2014, HTX gồm 21 thành viên là Hội viên Hội cựu Chiến binh, chủ gia trại, trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản trên địa bàn xã với số vốn góp theo Điều lệ là 150 triệu đồng. Mục tiêu kinh doanh vủa HTX nhằm vào sản xuất những sản phẩm sạch và an toàn để xây dựng thương hiệu có uy tín. Theo đó, thành viên HTX đã tập trung thực hiện các quy trình sản xuất sạch cho các sản phẩm chính là gà,trứng gà, lợn và gạo thảo dược. Nông sản làm ra đạt chất lượng cao, được chứng nhận an toàn, có tem truy xuất nguồn gốc và đủ điều kiện để tiêu thụ trên thị trường. Với những quy trình được thành viên thực hiện nghiêm chỉnh, HTX đã trở thành đầu mối tiêu thụ và là hạt nhân xây dựng thương hiệu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nông sản.
Theo hướng phát triển này, sản phẩm hàng hoá hàng năm của HTX đã đạt trên 150 tấn thịt gà, 220 tấn thóc, từ 250 đến 270 tấn thịt lợn, hơn 2 triệu quả trứng gà, 5.000 lợn sữa và trên 20.000 con thỏ…,Đến nay, tổng giá trị nông sản hàng hoá của các thành viên trong HTX đã đạt trên 20,6 tỷ đồng; một số thành viên có doanh thu từ 300 triệu tới 500 triệu đồng/năm.
2.2.2.3. HTX nông nghiệp hữu cơ Đồng Phú, huyện Chương Mỹ
Thủ đô Hà Nội mở rộng trở thành vùng sản xuất nông nghiệp lớn của châu thổ sông Hồng.Với dân số trên 8 triệu người, mỗi tháng Hà Nội tiêu thụ khoảng 300.000 tấn nông sản thực phẩm chất lượng cao; nhưng khả năng sản xuất của thành phố chỉ đáp ứng được 30% về gạo và chừng 3% về thuỷ, hải sản.
Xuất phát từ đặc điểm riêng của sản xuất nông nghiệp tại thôn Thượng Phúc xã Đồng Phú, một nhóm nông dân trồng lúa đã cùng nhau xây dựng HTX nông nghiệp hữu cơ. Cuối tháng 9 năm 2017 HTX Đồng Phú được thành lập gồm 89 hộ thành viên với 15 ha đất trồng lúa, đến niên vụ 2018-2019, số thành viên phát triển lên 103 và diện tích gieo trồng đã tăng lên 25 ha/vụ.
Khác với trồng lúa thông thường, lúa hữu cơ được sản xuất theo nhóm hộ trong các khu ruộng và các hộ nông dân tự giám sát lẫn nhau trong thực hiện quy trình sản xuất. Với năng suất đạt trên 4,9 tấn/ha/vụ, gạo hữu cơ Đồng Phú đã được thị trường chấp nhận. Vụ lúa xuân 2019, HTX đã mở rộng gieo trồng trên diện tích 50 ha. Bằng cách làm mới và áp dụng tiến bộ kỹ thuật, thu nhập của sản xuất lúa hữu cơ đạt trên 185 triệu đồng/ha, cao hơn 2,1 lần so với phương thức sản xuất trước đây.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường thăm mô hình trồng cây cảnh
2.2.3.Mô hình tập trung đất đai, ứng dụng công nghệ cao để chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
Trong điều kiện sản xuất lúa ở ĐBSH gặp nhiều khó khăn, ở nhiều tỉnh trọng điểm lúa nông dân muốn bỏ sản xuất lúa, nhưng khó khăn trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vì thiếu sự hỗ trợ của HTX. Khác với những HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp trong vùng, ở HTX Nông nghiệp Đồng tâm 3, Xã Thường Thắng, Huyện Hiệp Hoà tỉnh Bắc Giang, mọi hoạt động nông nghiệp đều được tiến hành dưới sự điều hành trực tiếp của Ban quản lý HTX từ xây dựng kế hoạch , đầu tư đến tổ chức sản xuất , sơ chế biến, bảo quản và liên kết tiêu thụ sản phẩm.
Được thành lập ngày 05/01/2017 với ngành nghề kinh doanh rau màu và cây ăn quả, HTX có 14 ha đất ruộng lúa kếm hiệu quả của 52 hộ nông dân cam kết đóng góp. Vốn điều lệ được quy đổi từ diện tích đất đai sản xuất, trị giá 1,5 tỷ và vốn lưu động khoảng 1,0 tỷ VNĐ. Từ một vùng đất cằn cỗi, quanh năm khô hạn, người dân sống thuần nông với năng suất lúa và thu nhập rất thấp. Bằng huy động nông dân góp đất, lập kế hoạch và cùng sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao, HTX Đồng Tâm 3 đã đạt được nhiều kết quả, mở ra cơ hội mới trong sản xuất nông sản hàng hoá và nâng cao thu nhập.
Từ quỹ đất của mình, HTX đã dành 1,5 ha xây dựng nhà màng hiện đại, canh tác trên giá thể, trang bị hệ thống tưới nhỏ giọt và tưới phun mưa…Trong nhà màng, HTX đã canh tác nhiều loại nông sản sạch, an toàn với chất lượng cao như dưa lưới, rau xanh theo đặt hàng của đối tác trong nước và xuất khẩu. Nhờ đầu tư Công nghệ cao vào sản xuất, HTX đã đưa giá trị sản lượng bình quân 1 ha lên cao gấp từ 20 đến 30 lần so với trồng lúa trước đây. Phần diện tích 12,5 ha được chuyển đổi từ cấy lúa 2 vụ sang trồng rau màu theo quy trình canh tác hữu cơ vi sinh. Hầu hết nông sản đều sản xuất theo đặt hàng của các doanh nghiệp, siêu thị và các khu công nghiệp tập trung.
Kết quả hạch toán kinh doanh cho thấy, giá trị sản lượng dưa lưới trồng trong nhà màng bình quân đạt trên 3,7 tỷ đồng/ha với chi phí cả 3 vụ chừng 1, 5 tỷ đồng và lợi nhuận đạt được từ 1,0 đến 1,5 tỷ đồng/ha. Trồng dưa ứng dụng công nghệ cao đạt kết quả tốt đã mở ra hướng sản xuất nông nghiệp an toàn, hiện đại và bền vững.
Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ trồng lúa kém hiệu quả sang rau màu an toàn đã giúp có vai trò quyết định của HTX và qua đó giúp các hộ thành viên nâng cao thu nhập trên những thửa ruộng nhỏ của ĐBSH. Với mô hình tạo công ăn việc làm thiết thực cho người lao động, thu nhập nông nghiệp của các hộ thành viên đã tăng từ 3 đến 5 lần so với trước ngày tham gia HTX.
3.Một số nhận xét rút ra và khuyến nghị
Từ thực tiễn diễn ra có thể nhận thấy, những mô hình HTX nông nghiệp ở nước ta đã được hình thành phù hợp với trình độ trình độ sản xuất của kinh tế hộ nông dân, phát triển từ thấp đến cao với các hình thức hợp tác giản đơn như tổ hợp tác và hợp tác xã .
Loại hình hợp tác giản đơn đó là các tổ hợp tác, nhóm sở thích, câu lạc bộ, hội quán được hình thành trên cơ sở cùng mục đích, cùng cộng tác, trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mỗi thành viên.
HTX nông nghiệp là loại hình kinh tế phát triển ở trình độ cao hơn kinh tế hợp tác giản đơn. Những mô hình nghiên cứu trên các đị bàn khác nhau đã được phát triển phù hợp với định nghĩa của Liên Minh HTX toàn cầu, đó là tổ chức kinh tế“… tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ” hoặc mang hàm nghĩa của sự liên kết giữa những người gặp phải khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết lại trên cơ sở bình đẳng quyền lợi, nghĩa vụ sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào HTX như cách thể hiện của tổ chức lao động quốc tế (ILO),
Có thể nhận thấy, những hợp tác xã hoạt động thành công là những đơn vị được hình thành từ nhu cầu xây dựng là việc làm tự thân của các chủ thể kinh tế là những người làm nông nghiệp giầu kinh nghiệm, có kiến thức và hiểu biết sản xuất kinh doanh. Nhà nước thông qua các chính sách hỗ trợ là tác nhân thúc đẩy, hỗ trợ tạo điều kiện để kinh tế hợp tác phát triển.
Kinh tế hợp tác đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế hộ gia đình thành viên thông qua tạo việc làm, giảm chi phí, tăng giá bán, cải thiện thu nhập, xóa đói giảm nghèo và giữ vững an sinh xã hội. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động của HTX không thể chỉ đơn thuần dựa trên tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, lợi nhuận của HTX mà quan trọng là thông qua cung ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra cho thành viên, HTX đã trực tiếp góp phần vào nâng cao giá trị gia tăng của kinh tế hộ thành viên. Hiệu quả hoạt động của HTX cần phải tính đến cả hiệu quả chung của HTX và hiệu quả mang lại cho các hộ gia đình là kinh tế thành viên.
Nét phổ biến ở các mô hình thành công đều đi lên từ những vấn đề đặt ra thực tiễn địa phương, đòi hỏi cần phải chuyển sang sản xuất nông sản hàng hóa để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Các hình thái hợp tác từ thấp đến cao đều hướng vào đổi mới công nghệ để lựa chọn những khâu đột phá, nhằm tháo gỡ khó khăn của kinh tế hộ trong việc tham gia vào chuỗi giá trị nông sản của từng loại ngành hàng.
Sự thành bại của các mô hình kinh tế hợp tác nông nghiệp phụ thuộc vào việc lựa chọn điểm yếu cần tập trung trong bước khởi đầu, để hình thành phương hướng sản xuất kinh doanh lâu dài, gắn được với chuỗi giá trị nông sản thực phẩm từ khởi đâù sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm sau cùng để mang lại lợi ích cao nhất.
Việc gắn kết hộ nông dân sản xuất phân tán hoặc những tổ chức kinh tế hợp tác ở trình độ sản xuất nhỏ, manh mún vào một hệ thống kinh tế tập thể theo chuỗi giá trị có sự tham gia liên kết của các siêu thị và những công ty xuất khẩu trên địa bàn Sơn La, một tỉnh ở vùng cao khó khăn, là một minh chứng thiết thực và rõ nét để Tỉnh trở thành vùng sản xuất rau quả chuyên canh lớn thứ 2 của cả nước. Để làm được điều này, Sơn La đã phải tập trung vào đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng phù hợp. Điều này cũng giúp các nhà hoạch định chiến lược nhận rõ thêm tầm quan trọng của nguồn nhân lực để có biện pháp hỗ trợ trong chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác trong thời gian tới.
Hiện các HTX nông nghiệp còn một số hạn chế như yếu kém về hạ tầng kỹ thuật; hầu hết các hộ nông dân thành viên còn nghèo; thiếu kiến thức, khả năng kinh doanh để đáp ứng yêu cầu về chất lượng và ATTP của thị trường và vốn đầu tư là những vấn đề nội tại cần được tháo gỡ. Nếu xếp theo thứ tự ưu tiên thì đối với HTX, THT hiện nay hạn chế lớn nhất là năng lực tự tìm kiếm để tiếp cận các thị trường cao cấp, đảm bảo ATTP; sau đó là lên phương án sản xuất kinh doanh để dáp ứng được các tiêu chuẩn của người mua; và tiếp nữa là khả năng tiếp cận công nghệ và tín dụng để thực hiện các kế hoạch kinh doanh. Khu vực HTX, THT có nhu cầu tư vấn đào tạo cao, tuy nhiên hiện năng lực tư vấn đào tạo cho HTX ở các địa phương còn thiếu và yếu.
Từ những kinh nghiệm rút ra qua các mô hình ở nhiều vùng miền, để thúc đẩy kinh tế hợp tác phát triển phải tháo gỡ được những khó khăn cụ thể trong chuỗi giá trị sản phẩm của người kinh doanh trên từng địa bàn. Muốn làm việc này, trước hết phải có nguồn nhân lực đủ năng lực nhận biết và thực thi. Để tạo được năng lực này, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho THT, HTX cần được coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu.
Ngoài việc đề xuất có liên quan đến quản lý ruộng đất,… trong xây dựng chính sách hỗ trơ của Chính phủ để phát triển kinh tế tập thể, các tác giả thấy cần tập trung vào 5 gỉải pháp thiết thực chính sau đây:
Một là, tập trung nỗ lực vào hỗ trợ để xây dựng và thực thi kế hoạch đào tạo tăng cường năng lực lao động quản lý HTX cho các HTX đã được thành lập và thành lập mới về kiến thức và kỹ năng quản lý, kinh doanh, ứng dụng công nghệ sản xuất và công nghệ thông tin theo yêu cầu của kinh tế thị trường hiện đại. Bên cạnh đó cần huy động các Viện trường, hệ thống khuyến nông, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp hình thành đội ngũ tư vấn đào tạo cho THT và HTX một cách chuyên nghiệp để đáp ứng nhu cầu của các HTX trên toàn quốc.
Hai là, thúc đẩy phát triển các mô hình chuỗi giá trị nông sản thực phẩm an toàn thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó liên kết HTX-doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong việc sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng ATTP, có truy xuất nguồn gốc minh bạch thông tin ở các ngành hàng chủ lực, chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), Chương trình hỗ trợ bảo hộ sở hữu trí tuệ cho nông sản, xây dựng thương hiệu nông sản… nhằm xây dựng uy tín của HTX cũng như thương hiệu nông sản thực phẩm đối với người tiêu dùng.
Ba là, hỗ trợ cho đầu tư nghiên cứu tập trung vào phát triển công nghệ và kỹ thuật sản xuất-chế biến đồng bộ theo chuỗi giá trị, bao gồm cả công nghệ thông tin, công nghệ số để tạo đột phá trong chuỗi giá trị nông nghiệp của từng ngành hàng chủ lực và địa phương.
Bốn là, tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng cho HTX, THT và hình thành hệ thống kiểm toán HTX nhằm tăng cường năng lực tài chính cho khu vực kinh tế tập thể.
Năm là, các chính sách hỗ trợ HTX cần được thực hiện theo tiếp cận từ dưới lên, dựa trên nhu cầu của các HTX, nhà nước đóng vai trò hướng dẫn, tư vấn và tạo môi trường chính sách thuận lợi cho HTX dựa trên cở sở quản lý HTX áp dụng các nền tảng công nghệ thông tin, công nghệ số, thúc đẩy các mạng lưới hợp tác trao đổi kinh nghiệm giữa các HTX, THT.
PGS. TS. Đào Thế Anh, TS. Lê Thành Ý
Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam (PHANO)